Phong cách nghệ thuật báo chí Hồ Chí Minh (08/05/2017)
Bác Hồ không chỉ là vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào giải phóng dân tộc và cộng sản quốc tế, mà còn là nhà báo vô sản vĩ đại. Người đã khai sinh ra nền báo chí cách mạng Việt Nam và là người thầy của các thế hệ nhà báo nước ta.Cũng như C.Mác, Ph.Ăng-ghen và V.I.Lê-nin, Bác Hồ bắt đầu cuộc đời hoạt động cách mạng của mình bằng tiếng nói đấu tranh của báo chí.
Kể từ năm 1919, với bài báo đầu tiên “Tâm địa thực dân” ký tên Nguyễn Ái Quốc đến bài báo cuối cùng của Người: “Nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng” với bút danh TL, đăng trên báo Nhân Dân, số 5526, ngày 01/6/1969, Người đã viết khoảng 2.000 bài, dưới 169 tên gọi, bí danh, bút danh khác nhau. (1) Đặc biệt, trước khi viết báo bằng tiếng Việt, Người đã viết bằng các tiếng Pháp, Anh, Trung Quốc, Nga và nhiều thứ tiếng khác.
Với lời văn sắc sảo và châm biếm, mỗi bài báo của Người là một tờ hịch chiến đấu và là một bản cáo trạng đanh thép đối với chủ nghĩa đế quốc. Người đã sử dụng báo chí làm công cụ cực kỳ sắc bén để chống thực dân, đế quốc, tuyên truyền cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội lần thứ III của Hội Nhà báo Việt Nam, ngày 08/9/1962, Người đã nói: “Nhiệm vụ của báo chí là phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng… Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ…”(2)
Đối với Người, báo chí là phương tiện đấu tranh cách mạng, báo chí là một mặt trận và người làm báo là chiến sĩ trên mặt trận ấy.
Theo Người, “Mỗi khi viết một bài báo, thì tự đặt câu hỏi: “Viết cho ai xem ? Viết để làm gì ? Viết thế nào cho phổ thông, dễ hiểu, ngắn gọn dễ đọc ?”(3) Câu hỏi này phải được trả lời trước khi đặt bút viết một bài báo.
Với mỗi đối tượng cụ thể, Người đã tìm ra cách viết phù hợp nhất. Với đại đa số dân chúng, Người viết rất giản dị, mộc mạc, dễ hiểu, nhiều khi có vần, có đối như ca đao, tục ngữ rất quen thuộc với nhiều người.
Với tầng lớp trí thức, nhà khoa học, Người lại bàn những vấn đề về triết học, khoa học - kỹ thuật, văn học, nghệ thuật…
Đặc trưng trong văn phong báo chí Hồ Chí Minh có thể cô đọng trong mấy chữ: Chân thực; Ngắn gọn; Trong sáng; Giản dị; Sinh động. Chân thực là yêu cầu đầu tiên của bài báo. Chính tính chân thực đã làm nên sức thuyết phục cao của những bài báo của Người đối với người nghe, người đọc. Theo Người, “Viết phải đúng sự thật, không được bịa ra”; “không nên nói ẩu”; “chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết”…
Ngắn gọn là đặc trưng nổi bật trong cách viết của Người. Theo Người, “ngắn gọn có nghĩa là gọn gàng, rõ ràng, có đầu, có đuôi, có nội dung thiết thực, thấm thía, chắc chắn”. Và tuyệt đối tránh viết dài mà sáo rỗng.
Đó là kết quả của sự kiên trì tự rèn luyện với quyết tâm cao của Người từ những ngày đầu tham gia làm báo cách mạng. Khi đề cập đến những luận điểm, những vấn đề có tính nguyên tắc, Người thường viết rất ngắn mà lại súc tích như châm ngôn: Không có gì quý hơn độc lập tự do; dĩ bất biến ứng vạn biến… Đặc trưng ngắn gọn, súc tích trong các bài viết của Người là “sự kế thừa và phát triển phong cách hiền triết phương Đông: ý tại ngôn ngoại”
Những bài viết của Người đều rất giản dị trong cách trình bày và dễ hiểu với người đọc bằng những ngôn từ quen thuộc, dù đó là những vấn đề lớn của đất nước, của thời đại.
Để cho bài báo được trong sáng, giản dị, dễ hiểu, Người nói: “Khuyết điểm nặng nhất là dùng chữ nước ngoài quá nhiều và nhiều khi dùng không đúng… Có những chữ ta không có sẵn và khó dịch đúng, thì cần phải mượn chữ nước ngoài… Còn những tiếng ta có, vì sao không dùng, mà cũng mượn chữ nước ngoài ? Ví dụ: Không gọi xe lửa mà gọi “hỏa xa”; máy bay thì gọi “phi cơ” v.v…”(4).
Theo Người, muốn viết được trong sáng, giản dị, dễ hiểu, trước hết các nhà báo phải học cách nói của quần chúng để có cách viết được quần chúng chấp nhận như những gì của chính họ. Người nói: “Muốn cho người đọc hiểu được, nhớ được, làm được thì phải viết cho đúng trình độ người xem”(5).
Với bút pháp luôn luôn biến hóa: mềm dẻo khi thuyết phục, sôi nổi khi tranh luận, đanh thép khi lên án…, Người thường đan xen đúng lúc những câu ca dao, đoạn thơ có vần điệu hay đã làm cho bài viết của Người không còn khô khan nữa.
Người còn đòi hỏi các nhà báo phải biết lựa chọn đề tài. Nếu viết để phục vụ nhân dân thì phải chọn cái gì có lợi cho dân … “Báo chí ta không phải để cho một số ít người xem, mà để phục vụ nhân dân, để tuyên truyền giải thích đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, cho nên phải có tính chất quần chúng và tinh thần chiến đấu…”(6)
Với nửa thế kỷ trên mặt trận báo chí, Người còn để lại nhiều bài học, nhiều kinh nghiệm quý báu khác về làm báo cách mạng. Một trong những di sản đó là nghệ thuật đặt tên đề bài báo và sử dụng ngôn ngữ báo chí.
Người thường dùng lối so sánh ví von khi đặt tên bài báo. Đả kích chủ nghĩa đế quốc tự khoe khoang là văn minh mà lại đi xâm lược, áp bức, bóc lột các thuộc địa, Người viết nhiều bài báo với tên đặt như: “Mỹ mà không đẹp”. “Quân Mỹ chết nhăn răng, tướng Mỹ nhăn răng cười”. Bài viết về tên tướng Mỹ Tay-lo với đầu đề mỉa mai: “Tay - lo rồi chân cũng lo”.
Người đã dùng ca dao, tục ngữ, thành ngữ dễ hiểu, nhưng chứa đựng nhiều nội dung sâu xa. Tố cáo Mỹ - Diệm, nhiều bài báo của Người đã được đặt tên: “Đã mất tiền, lại mất mặt”, “Mềm thì rắn, rắn thì buông”, “Lấy thúng úp voi”.
Khi Nhà nước ta kêu gọi tiết kiệm lạc để xuất khẩu, Người viết bài: “Làm thế nào để cho Lạc thêm vui” với lối chơi chữ nhẹ nhàng mà thật sâu sắc.
Để tránh sự sáo mòn, đơn điệu, Người đã có cách đặt tên cho một số bài báo thu hút được sự chú ý của người đọc như: “Phải chăng thế này là thực hành tiết kiệm ?”
Một số tên bài khác của Người đã gợi lên sự thắc mắc, buộc người đọc phải tự tìm lời giải đáp như bài: “Rút ngắn càng tốt, kéo dài càng hay”, “3 định, 4 vui lòng” v.v…
Trên nhiều bài báo của mình, Người đã khai thác các hình thức ngôn ngữ có tính dân gian như ca dao, vè, thành ngữ, tực ngữ, lẩy Kiều.
Người viết: “Người ta “thắp đuốc đi tìm” cũng không thấy một cử chỉ hòa bình nào của phe đế quốc do Mỹ cầm đầu” (Báo Nhân Dân, ngày 29-9-1955); “Chữ ký chưa ráo mực” thì Mỹ đã dùng mọi cách phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ” (Báo Nhân Dân, ngày 5-3-1965); “Vác mặt ra ứng cử” đều là những tên tay sai buôn lậu nổi tiếng, những tên Việt gian đã từng “liếm gót giày” cho giặc Nhật, giặc Tây” (Báo Nhân Dân, ngày 10-2-1953).
Trong nhiều bài báo khác, Người viết: “Đế quốc Mỹ chết mà nết không chừa”; bọn chúng như “chó dại cắn càn”; “vừa ăn cướp, vừa la làng”.
Người thường dùng các thành ngữ “ném đá dấu tay”; “rước voi giày mả tổ”; “ăn quen bén mùi”. Để lên án bản chất Ngô Đình Diệm, Người viết: “Diệm chẳng những “rước voi giày mả tổ, cõng rắn cắn gà nhà”. Hắn dựa vào đế quốc Mỹ mà càn quét, khủng bố, chặt đầu, mổ bụng đồng bào ta ở miền Nam. “Trẻ nó không tha, già hắn không từ” (Báo Nhân Dân, ngày 15-12-1961).
Trong nhiều bài báo khác của Người, ngôn ngữ luôn có sự kết hợp giữa lý trí và tình cảm và mang tính khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ ta là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”.
Trong ngôn ngữ báo chí, Người ít khi sử dụng nguyên văn câu thơ của truyện Kiều mà cải biên nó ra. Ví dụ:
Yêu nhau xin nhớ lời nhau
Việt Minh hồi ấy mau mau tìm vào.
Hoặc Người dùng lối lẩy Kiều khi đế quốc Mỹ bày ra trò điều tra ở miền Nam nước ta: “Bổng dưng mua não, rước sầu làm chi” hay “Phong trần ai cũng ghét ai”.
Để cho độc giả dễ nhớ, Người dùng một vài câu thơ lục bát. Khi phê phán cách dùng người, Người viết:
Phí tiền mua cá không tươi
Mua rau đã héo, mua người ngu ngơ.
Bác Hồ làm báo là để làm cách mạng và để làm cách mạng, Người đã trở thành một nhà báo cách mạng vĩ đại. Các tác phẩm báo chí của Người đều có nội dung sâu sắc và mẫu mực về hình thức, là sự nhuần nhuyễn giữa nội dung và hình thức thể hiện, tạo nên một phong cách riêng rất độc đáo mà các thế hệ nhà báo cách mạng Việt Nam phải phấn đấu dần dần đạt tới./.
Nguyễn Xuyến
(1) Theo thống kê của Bảo tàng Hồ Chí Minh trong cuốn Những tên gọi, bí danh, bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh - NXB CTQG - H - 2001.
(2)(3)(4) Hồ Chí Minh Toàn tập - NXB CTQG - H - 1996 - T 10 - tr 613 - 616 ; 615; 615.
(5) “Nâng cao hơn nữa chất lượng của báo chí”- Báo Nhân Dân, số 3095, ngày 9-9-1962.
(6) Hồ Chí Minh Toàn tập - NXB CTQG - H - 1996 - T 9 - tr 414