Điểm mới trong ứng dụng Laser công suất thấp phục hồi chức năng vận động ở bệnh nhân nhồi máu não (06/05/2021)
Tai biến mạch máu não (TBMMN) là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ ba sau bệnh ung thư và tim mạch. Trong đó TBMMN thể nhồi máu não chiếm tỷ lệ 80%. Từ tháng 01 đến tháng 10 năm 2017 bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Dương tiếp nhận 1.129 người bị TBMMN. Thông thường người bệnh sau khi được cấp cứu ổn định từ một đến ba tháng mới chuyển sang điều trị phục hồi chức năng (chủ yếu là tập vận động do liệt). Việc tập luyện và châm cứu được thực hiện từ một đến ba tháng là khoàng thời gian khá dài gây không ít khó khăn cho bệnh nhân và gia đình. Bên cạnh đó do điều trị phục hồi trễ nên tỷ lệ thành công còn khiêm tốn, nguy cơ tái phát nhiều tiềm ẩn.
Ngày 23 tháng 7 năm 2014 Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương có quyết định số 2405/UBND-VX về nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ năm 2015, giao Bệnh viện Đa khoa tỉnh thực hiện nhiệm vụ “ Đánh giá hiệu quả ứng dụng Laser nội mạch kết hợp quang châm, quang trị liệu hỗ trợ chức năng vận động cho bệnh nhân Tai biến mạch máu não, thể nhồi máu não”. Qua 2,5 năm thực hiện với 200 bệnh nhân chia làm 2 lô (lô nghiên cứu và lô đối chứng), đề tài do bệnh viện Đa khoa tỉnh chủ trì đã thể hiện tính cấp bách của phương pháp điều trị mới, mở ra cơ hội tiếp cận sớm cho bệnh nhân ngay sau cấp cứu; rút ngắn thời gian điều trị; nâng cao tỷ lệ phục hồi vận động trong điều kiện an toàn hơn với thủ thuật đơn giãn, dễ áp dụng.
Qua báo cáo của nhóm nghiên cứu cho thấy những điểm mới của đề tài thể hiện như sau:
1. Phương pháp điều trị bằng Laser nội mạch được áp dụng ngay khi bệnh nhân nhập viện cấp cứu, sau khi được chẩn đoán kết luận TBMMN thể nhồi máu não. Điều này tăng tính hiệu quả khi tận dụng thời gian vàng trong điều trị. Thời gian điều trị từ 14 đến 21 ngày với kết quả hết liệt hoàn toàn 28%, giảm độ liệt đáng kể 72%.
Khác với những nghiên cứu trước đây chỉ sử dụng Quang châm và Quang trị liệu hoặc chỉ sử dụng riêng Laser nội mạch và can thiệp sau khi bệnh nhân điều trị ổn định (từ 1 đến 3 tháng). Điều này khiến cho thời gian điều trị kéo dài khoảng 40 đến 60 ngày mới đạt kết quả mong muốn (2 đến 3 liệu trình).
Nhóm nghiên cứu đã sử dụng bảng điểm Orgogozo làm công cụ đánh giá phục hồi vận động trong điều trị. Điểm số Orgogozo trung bình (độ lệch chuẩn) trên các nhóm: ý thức, giao tiếp bằng ngôn ngữ, mắt và tư thế đầu, vận động mặt, nâng cánh tay, vận động bàn tay, trương lực chi trên, nâng chân, gấp bàn chân, trương lực chi dưới đạt được như sau:
Điểm Orgogozo
|
Trước điều trị
|
Sau điều trị
7 ngày
|
Sau điều trị 14 ngày
|
Sau điều trị 21 ngày
|
44,5 (12,6)
|
57,05 (17,82)
P <0,001
|
68,25 (18,87)
P <0,001
|
74,38 (19,19)
P <0,001
|
Với kết quả P<0,001 cho thấy độ tin cậy của phương pháp rất cao
2. Các chỉ số sinh hiệu và xét nghiệm cho thấy những thay đổi chỉ số về dấu sinh hiệu, sinh hóa huyết học có lợi cho sức khỏe và trong phạm vi bình thường, không nguy hại hoặc biến chứng gì khác. Đặc biệt tiểu cầu tăng trong mức độ bình thường cho thấy có thể sử dụng phương pháp này với bệnh nhân xuất huyết não (do trước đây giới y học e ngại yếu tố giảm tiểu cầu phá hủy cục máu đông gây tái xuất huyết não).
Với kết quả 11/22 chỉ tiêu đã thực hiện có ý nghĩa thống kê khi ngẫu suất P<0,001 như sau:
Các chỉ tiêu
|
Trước điều trị (trung bình - độ lệch chuẩn)
|
Sau điều trị (trung bình - độ lệch chuẩn)
|
P
|
Huyết áp tâm thu
|
140 (19,3)
|
128,4 (13,7)
|
<0,001
|
Huyết áp tâm trương
|
83 (10,4)
|
78,5 (7,6)
|
<0,001
|
Cholesterol
|
5,07 (1,43)
|
3,57 (0,89)
|
<0,001
|
HDL
|
1,09 (0,29)
|
0,94 (0,29)
|
<0,001
|
LDL
|
3,09 (1,14)
|
1,77 (0,65)
|
<0,001
|
Đường huyết
|
8,43 (6,79)
|
6,18 (11,01)
|
<0,001
|
AST
|
30,05 (20,51)
|
36,47 (24,11)
|
<0,001
|
ALT
|
25,71 (18,31)
|
36,24 (23,46)
|
<0,001
|
Cretinin
|
86,46 (50,39)
|
75,71 (31,77)
|
<0,001
|
K +
|
3,56 (0,43)
|
4,01 (0,50)
|
<0,001
|
Tiểu cầu
|
221,36 (59,70)
|
287,81 (106,12)
|
<0,001
|
Bệnh nhân ổn định huyết áp, nhịp tim, đường huyết, chức năng gan, thận, lipid máu với kết quả thống kê đạt <0,001 có ý nghĩa mạnh về độ tin cậy của phương pháp nghiên cứu. Điều này tăng độ an toàn trong điều trị, giảm thiểu nguy cơ tái phát đặc biệt trên tim mạch và huyết áp mà phương pháp điện châm trong châm cứu không thể có được. Với kết quả tăng Tiểu cầu trong giới hạn bình thường cho thấy phương pháp này có thể áp dụng đối với bệnh nhân TBMMN thể xuất huyết não.
3. Với khái niệm vùng nửa tối và khái niệm tự điều hòa lưu lượng máu não nếu lưu lượng thấp sẽ gây hoại tử vùng nửa tối, nếu cao quá ngưỡng sẽ gây phù não và chảy máu vùng nửa tối (lưu lượng máu não bình thường cố định 55ml/100g não/phút). Phương pháp Laser nội mạch đã tái cấp máu kịp thời ngăn chặn tổn thương vùng thiếu máu mất điện sinh lý nhưng vẫn còn duy trì điện thế màng và điện thế hoạt động xuyên màng. Với thời gian cửa sổ điều trị từ 3 giờ đến 72 giờ đầu cho thấy việc điều trị sớm bằng Laser nội mạch là giải pháp có ưu thế trong điều trị.
Trong tính khả biến thần kinh não hoạt động để tổ chức lại não sau khi bị tổn thương, vì vậy phục hồi chức năng sớm thúc đẩy quá trình khả biến thần kinh này.
Trần Đình Hợp
Chủ tịch Hội Laser Y học tỉnh Bình Dương