Sợi tự nhiên - Compozit sợi tự nhiên (27/06/2019)
Vật liệu composite đã có mặt từ khá lâu trong hầu hết các lĩnh vực: từ công nghiệp dân dụng, y tế, thể thao, xây dựng, giao thông vận tải…với nhiều sản phẩm đã đi vào đời sống, với các mặt hàng gia dụng như bàn, ghế, bồn tắm, đồ chơi... và các sản phẩm công nghiệp như thuyền bè, canô, bồn chứa hoá chất... đem lại nhiều lợi ích và hiệu quả trong kinh tế. Trong nghiên cứu và phát triển vật liệu composit đi từ sợi tự nhiên của tác giả Bùi Chương, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội có nghiên cứu tổng quan về Compozit sợi tự nhiên như sau:
Vật liệu compozit
Thiên nhiên đã tạo ra những vật liệu composite từ hàng triệu năm nay. Gỗ và xương được coi như những vật liệu composite từ tự nhiên. Gỗ bao gồm các sợi xenlulo bền kéo và uốn, được hóa cứng nhờ liên kết với nền lignin. Còn xương với độ dai và độ bền nhờ sự phân tán các mảng xương cứng dạng tinh thể của hydroxyapatit (khoáng) trong dạng nền mềm dẻo với các sợi collagen (protein).
Những ưu điểm của vật liệu composite khi so sánh với những vật liệu truyền thống khác gồm: Độ bền và độ cứng cao so với khối lượng; khối lượng riêng thấp; bền ăn mòn; có thể thiết kế tính dẻo; giá thành sản xuất giảm…
Sợi tự nhiên
Việc sử dụng rộng rãi các vật liệu polyme compozit từ các loại sợi truyền thống như sợi thủy tinh, cacbon, bo và kevlar đã gây những tác động xấu tới môi trường do phế thải sau khi sử dụng rất khó bị phân hủy. Vì vậy trong vài thập kỷ gần đây việc nghiên cứu và phát triển những loại vật liệu PC có khả năng phân hủy sinh học, thân thiện môi trường đã thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học. Một trong những giải pháp đó là sử dụng sợi có nguồn gốc tự nhiên như sợi đay, sợi tre, xơ dừa, xidan và dứa,… làm vật liệu gia cường.
Ưu điểm của sợi tự nhiên: Có nguồn nguyên liệu dồi dào, có thể tái tạo với chi phí thấp; tỷ trọng thấp, dẫn đến độ bền và độ cứng riêng cao hơn sợi thủy tinh; chịu uốn dẻo cao, thích hợp cho các sản phẩm chịu uốn; sợi có khả năng biến đổi hóa học bề mặt cao; dễ gia công hoặc tái chế, không mài mòn thiết bị, vốn đầu tư thấp; không độc hại, không gây kích thích da; phế thải sau sử dụng có thể phân hủy sinh học hoặc phân hủy hoàn toàn bằng nhiệt.
Nhược điểm: Tính chất cơ học thấp hơn so với sợi tổng hợp, tuy nhiên có thể nâng cao độ bền vật liệu compozit nhờ lai tạo với sợi tổng hợp; Có độ hút ẩm cao (với hàm lượng hơi ẩm từ 3-13%) dẫn đến làm giảm độ bền của sản phẩm. Có thể khắc phục bằng cách axetyl hóa bề mặt sợi hoặc sơn phủ bề mặt sản phẩm; sợi có độ phân cực khá lớn nên tương hợp kém với đa số nền nhựa không ưa nước dẫn đến tính chất cơ lý, hóa của sản phẩm không cao; nhiệt độ gia công sản phẩm thấp (< 2000C) do tính chịu nhiệt kém.
Sợi tự nhiên có thể được phân loại theo sợi gỗ (sợi gỗ mềm – cây hạt trần và sợi gỗ cứng – cây hạt kín) và phân loại theo sợi phi gỗ, gồm có: sợi từ vỏ cây (lanh, gai, đay, dâm bụt…); sợi từ lá cây (xidan, chuối abaca…); sợi từ quả (xơ dừa…); sợi từ hạt (bông…) và sợi từ thân cây (tre nứa, rơm, cọ…).
Thành phần hóa học của sợi tự nhiên thay đổi phụ thuộc vào từng loại sợi. Thành phần hóa học cũng như cấu trúc của sợi thực vật khá phức tạp. Phần lớn các sợi thực vật, trừ sợi bông, đều bao gồm những thành phần chính là xenlulo, hemixenlulo và lignin. Tính chất của những thành phần này đều góp phần vào tất cả các tính chất của sợi. Hemixenlulo là nguyên nhân chính gây phân hủy sinh học, thấm ẩm và phân hủy nhiệt của sợi, trong khi đó lignin góp phần chịu nhiệt nhưng lại dễ phân hủy bởi tia UV.
Bản thân sợi tự nhiên cũng là vật liệu compozit. Sợi cấu thành từ các vi sợi xenlulo dạng tinh thể gia cường cho nền vô định hình của lignin và hemixenlulo. Xenlulo cung cấp độ bền trong khi lignin và hemixenlulo cung cấp độ dai và bảo vệ sợi. Những sợi xenlulo này gồm có nhiều sợi nhỏ chạy dọc theo chiều dài của sợi. Liên kết hydro và những liên kết khác giúp cho sợi có độ bền và độ cứng cần thiết.
Các phương pháp xử lý bề mặt của sợi tự nhiên
Như chúng ta đã biết compozit sợi tự nhiên có tính chất cơ lý thấp hơn compozit sợi thủy tinh, đặc biệt là độ bền va đập. Nguyên nhân chính là do sợi tự nhiên có tính chất cơ lý thấp. Thêm nữa là do ảnh hưởng bởi tính thấm, hút ẩm và phân hủy nhiệt của sợi, bám dính sợi/nhựa kém. Chất lượng của bề mặt tương tác giữa sợi / nền đóng vai trò quan trọng cho việc sử dụng sợi tự nhiên làm sợi gia cường cho compozit. Vì vậy những phương pháp vật lý và hóa học đã được sử dụng nhằm giải quyết vấn đề này, từ đó tính chất của compozit được nâng cao.
Phương pháp hóa học: Xử lý kiềm; thay đổi sức căng bề mặt hay xử lý bằng anhydric axetic; tẩm sợi; ghép nối hóa học. Các phương pháp vật lý như kéo giãn, cán láng, xử lý nhiệt và tạo sợi lai tạo không làm thay đổi thành phần hóa học của sợi nhưng có thể thay đổi cấu trúc và tính chất bề mặt của sợi và do đó tác động tới kết dính cơ học với polyme.
Phóng điện cũng là một phương pháp khác của xử lý vật lý. Corona là một trong những công nghệ làm hoạt hóa quá trình oxi hóa bề mặt được quan tâm nhất. Quá trình này sẽ làm thay đổi năng lượng bề mặt sợi xelulo và trong trường hợp hoạt hóa với bề mặt gỗ sẽ làm tăng số lượng nhóm andehyt. Sakata và các đồng sự đã nhận thấy tăng mức độ xử lý corona sẽ làm tăng khả năng thấm ướt của gỗ. Phương pháp này cũng được sử dụng thành công trong việc biến đổi sợi xenlulo, làm giảm độ nhớt nóng chảy và làm tăng tính chất cơ lý của compozit PP/xenlulo.
Compozit sợi tự nhiên
Dựa trên những loại sợi và nhựa nền khác nhau có thể phân loại compozit sợi tự nhiên thành các loại sau:
Compozit lai tạo từ sợi tự nhiên và sợi thủy tinh hoặc sợi cacbon: Thông thường, tính chất cơ lý và vật lý của compozit gia cường sợi tự nhiên kém hơn nhiều so với gia cường sợi thủy tinh. Vì vậy việc sử dụng compozit lai tạo giúp cho compozit gia cường sợi tự nhiên có thể cải thiện được rất nhiều. Nhờ tính không thấm nước của sợi thủy tinh nên đã hạn chế rất nhiều tác động của hơi ẩm tới tính chất cơ lý của vật liệu.
Compozit có khả năng phân hủy sinh học: Về mặt sinh thái và bảo vệ môi trường việc phát triển vật liệu compozit phân hủy sinh học mà ở đây là polyme phân hủy sinh học gia cường sợi tự nhiên đã được đánh giá cao.
Chất dẻo độn bột gỗ: Nhựa nhiệt dẻo (chủ yếu là HDPE, LDPE, PE clo hóa, PP, PS, PVC,…)gia cường với một số loại chất độn gỗ đang được phát triển nhanh chóng nhờ có nhiều ưu điểm như khối lượng nhẹ, độ bền và độ cứng chấp nhận được. Việc gia công đơn giản, giá thành rẻ và ít ảnh hưởng tới môi trường.
Tuyết Nhung